Thuật ngữ “tác giả” có nguồn gốc Hán Việt, “tác” có nghĩa là “làm”, cũng có nghĩa là “sáng tác tác phẩm”; còn “giả” có nghĩa là “kẻ, người”, cho nên “tác giả” có nghĩa là “người làm ra một tác phẩm, người tạo nên một tác phẩm”. Như vậy, tác giả được hiểu là người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hoặc tác phẩm phái sinh. Khi được công nhận là tác giả thì sẽ có quyền tương ứng gọi là quyền tác giả.

Theo quy định tại Điều 745 của Bộ luật dân sự năm 1995 thì “tác giả” là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

  1. Người dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả tác phẩm dịch đó;
  2. Người phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình khác, là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể đó;
  3. Người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo, là tác giả của tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó cũng được công nhận là tác giả.

Có thể nói rằng, khái niệm này chưa có tính khái quát, mới mang tính thống kê nhưng không đầy đủ. Sau đó, khái niệm “tác giả” đã được hoàn thiện hơn tại Điều 736 của Bộ luật dân sự năm 2005; theo đó:

Người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó. Trong trường hợp có hai người hoặc nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả. Người sáng tạo ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó.

Theo chúng tôi, việc đưa khái niệm tác giả vào Bộ luật dân sự năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế. Quyền tác giả cũng là một trong những quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn chung về Nhân quyền và tại các Thỏa ước quốc tế của Liên Hợp Quốc, đồng thời là một quyền pháp lý rất quan trọng nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

Tác phẩm văn học, nghệ thuật là tất cả các sản phẩm sáng tạo của con người để làm giàu cho trí tuệ và tâm hồn con người, bao gồm tất cả các loại hình văn học (như: tiểu thuyết, thơ, kịch bản…), các loại hình nghe nhìn (như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh…) và các thành quả nghiên cứu khoa học.

Luật Sở hữu trí tuệ định nghĩa: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” (khoản 2 Điều 4). Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

Quyền nhân thân bao gồm các quyền:

  1. Đặt tên cho tác phẩm;
  2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm;
  3. Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  4. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  5. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Quyền tài sản bao gồm các quyền:

  1. Làm tác phẩm phái sinh;
  2. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
  3. Sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
  4. Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
  5. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Các quyền quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật SHTT do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 19 của Luật SHTT phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Đối tượng của quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào (Điều 737 của BLDS năm 2005). Đó là quyền đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu; đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học (các điều 21, 22, 23 và Điều 24 của Luật SHTT).

 

Nguồn: Tổng hợp