Một cách rất tự nhiên, ngay từ thời cổ đại con người đã có ý muốn cá biệt hóa kết quả sản phẩm lao động của mình bằng cách sử dụng các dấu hiệu khác nhau: tên gọi riêng, ký hiệu riêng, tên gọi địa lý,… Nhiều bằng chứng cho thấy, từ thời cổ đại các nhà sản xuất đã sử dụng các dấu hiệu để chỉ ra nơi ở của mình (tức nơi xuất xứ hàng hóa). Ví dụ: “Khoảng thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đã xuất hiện những dấu hiệu dùng để phân biệt các loại rượu vang của Hy Lạp, mật ong Xixili.”

Qua khoảng thời gian lâu dài, với những kinh nghiệm sản xuất phong phú được tích lũy, những nơi mà có thêm điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất sản phẩm được trở thành những vùng chuyên sản xuất sản phẩm đó, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tên vùng, tên khu vực đó được nổi tiếng và khi nhắc đến chúng người ta liên tưởng ngay đến các sản phẩm đặc trưng có chất lượng cao của vùng. Vì vậy, đã hình thành nên quy luật sử dụng các dấu hiệu địa lý cho các sản phẩm uy tín xuất xứ từ vùng, khu vực nổi tiếng đó.

Nhãn hiệu từ lâu đã được sử dụng để nhận biết nguồn gốc của sản phẩm. Có bằng chứng về việc từ xa xưa tới 4.000 năm về trước thợ thủ công ở Trung Quốc, Ấn Độ và Ba Tư đã sử dụng chữ ký của họ hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm của họ. Thợ gốm La Mã đã sử dụng hơn 100 nhãn hiệu khác nhau để phân biệt tác phẩm của mình, nổi tiếng nhất là nhãn hiệu Fortis mà nhiều sản phẩm giả đã bắt chước.

Người ta tin rằng các thợ thủ công đó đã sử dụng nhãn hiệu cho nhiều mục đích, bao gồm sử dụng để quảng cáo cho người làm ra các sản phẩm đó, làm bằng chứng để khẳng định sản phẩm thuộc về một thương gia cụ thể nào đó khi có tranh chấp về sở hữu cũng như sử dụng làm một sự đảm bảo về chất lượng.

Rồi từ chính sự phát triển của quá trình phân công lao động và trao đổi hàng hóa đã hình thành những xưởng thủ công, những cơ sở sản xuất thủ công… chuyên sản xuất một số sản phẩm nhất định, nhãn hiệu được bắt đầu bằng những dấu hiệu riêng rất đơn giản để phân biệt hàng hóa giữa những xưởng, cơ sở sản xuất thủ công mang tính chất phường hội.

Trong thời Trung cổ, việc sử dụng nhãn hiệu đã được gắn với phát triển và tăng trưởng của thương mại, do đó thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” ra đời. Nhãn hiệu đã được sử dụng để chỉ ra rằng một sản phẩm do một thành viên của một phường hội được biết đến là có kinh nghiệm trong ngành buôn bán đó làm ra.

Trong tiếng Pháp, thuật ngữ được sử dụng là “marque deposée” trong đó deposée có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký với một phường hội buôn bán.Thời kỳ này cũng đã có sự giao thương quốc tế, buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia, châu lục như con đường tơ lụa bắt đầu từ Hàng Châu, Trung Quốc xuyên qua các quốc gia như Mông Cổ, Ấn Độ, Iran, đến Hy Lạp, vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu, nhưng giao thương quốc tế vẫn chưa thực sự phát triển.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XVI – XVII dưới tác động to lớn của cách mạng khoa học công nghệ đặc biệt vào những năm 70, 80 của thể kỷ XIX, nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã có thể sản xuất các sản phẩm hàng loạt, những phát minh quan trọng trong lĩnh vực vận tải đã làm mở cửa thị trường quốc tế. Những sản phẩm mới phục vụ cho cuộc sống tiện nghi hơn liên tiếp được ra đời và sản xuất hàng loạt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Những sản phẩm từ sản phẩm gia dụng như: từ cây kim, sợi chỉ đến quần áo, giày dép rồi dụng cụ gia đình. Và cả những sản phẩm công nghệ cao như đồ điện lạnh, điện tử… được sản xuất hàng loạt và phạm vi tiêu thụ của nó không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ nhất định nào mà phát triển mở rộng trên toàn thế giới.

Những công ty xuyên quốc gia, những tập đoàn toàn cầu đã tạo nên cuộc cạnh tranh trên thị trường và ngày càng trở nên gay gắt. Tên thương mại là tên gọi được dùng để nhận biết doanh nghiệp, nó giúp phân biệt chủ thể này với chủ thể khác trong cùng một ngành nghề, một lĩnh vực. Đây cũng chính yếu tố quan trọng để thể hiện uy tín của doanh nghiệp.

Do vậy, nhu cầu về việc phân biệt sản phẩm, dịch vụ thông qua các dấu hiệu là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý không chỉ đơn giản là việc đánh dấu sự phân biệt giữa sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại mà nó trở thành công cụ để định vị trong chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Giá trị của chúng không chỉ đơn giản dừng lại ở việc là công cụ để cạnh tranh mà nó trở thành tài sản vô giá của doanh nghiệp.

Như vậy, việc sử dụng độc quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã trở thành nhu cầu sống còn.

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh tranh, vấn đề phân biệt các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc cá thể hóa chủ thể kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ là một trong những điều kiện tiên quyết để làm cơ sở cho việc hình thành và củng cố uy tín kinh doanh cũng như mở rộng phạm vi hoạt động của các chủ thể.

Việt Nam trong nhiều năm qua, với nhiều nỗ lực Luật SHTT đã ra đời đánh dấu một bước phát triển trong sự phát triển của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tại Điều 1 Luật SHTT 2005 quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức và cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.

Sử dụng phương pháp liệt kê như vậy, cũng để định nghĩa về quyền sở hữu công nghiệp và phân biệt với quyền tác giả trong SHTT. Bởi lẽ cũng là sản phẩm trí tuệ nhưng nếu các sản phẩm này không liên quan đến việc tạo ra của cải, vật chất cho xã hội thì được bảo hộ bằng quyền tác giả còn nếu các sản phẩm đó gắn với sản xuất kinh doanh, có khả năng áp dụng để tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ bằng quyền sở hữu công nghiệp.

Thuật ngữ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chỗ các đối tượng của loại hình sở hữu này là tài sản vô hình nhưng lại áp dụng vào hoạt động công nghiệp hoặc thủ công nghiệp để tạo ra các sản phẩm vật chất do đó có giá trị kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Người nào là chủ sở hữu của những tài sản vô hình này thì được khai thác lợi ích kinh tế từ chúng và có lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy để được bảo hộ thì các đối tượng đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.

Một trong những phần không thể thiếu trong quy trình của sở hữu công nghiệp khi mà các đối tượng vô hình của quyền sở hữu công nghiệp lại tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, lúc đó buộc các nhà kinh doanh phải để ý đến những nhân tố như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý… Các nhân tố đó chính là các đối tượng, là công cụ xúc tiến kinh doanh, chúng mang giá trị kinh tế to lớn nhưng là giá trị vô hình trong sản phẩm hữu hình.

Chúng ta thấy chúng có thể không mang tính sáng tạo cao như sáng chế hay giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhưng chúng lại là sự thể hiện uy tín, chất lượng và phải do có những điều kiện nhất định. Ví dụ đối với chỉ dẫn địa lý, phải có những điều kiện tự nhiên ưu đãi nhất định mà chỉ nơi vùng miền đó có, hoặc ví dụ đối với nhãn hiệu, hay tên thương mại, cần phải có sự minh chứng về chất lượng, uy tín của sản phẩm, hay của doanh nghiệp đó qua một khoảng thời gian mới có thể tạo nên được sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường.

Như vậy, có thể thấy các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường.

Xem thêm:

Nguồn: Tổng hợp